Một lá thuyền con khách hải hồ
Vượt bờ lau lách, gió vi vu
Triều dâng bốn mặt, hoàng hôn phủ
Trời nước mênh mông, một dáng cò
Thiền sư Huyền Quang
Thiền sư Huyền Quang tên thật là Lý Đạo Tái, sinh năm Giáp Dần (1254) ở làng Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Thân phụ Ngài là Huệ Tổ dòng dõi quan lại, có công dẹp giặc Chiêm Thành, được nhà Trần bổ làm quan nhưng không nhận, chỉ ưa giao du sơn thủy. Thân mẫu Ngài dòng họ Lê là người hiền đức.
Thuở nhỏ, Lý Đạo Tái dung nhan kỳ lạ nhưng rất có chí hướng học hành. Ông rất thông minh, biệt tài lanh lợi. Năm 19 tuổi thi Hương, năm sau thi Hội, ông đều đỗ đầu. Ông đỗ Trạng Nguyên năm 20 tuổi. Cha mẹ tuy đã đính hôn cho ông nhưng chưa cưới. Sau khi thi đậu, nhà vua gọi gả công chúa cho nhưng ông vẫn từ chối. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm quan ở Hàn lâm viện, phụng mạng tiếp đón sứ Trung Hoa. Văn chương ngôn ngữ của ông lưu loát, đối đáp trôi chảy nên rất được người Tàu nể phục.
Một hôm ông theo vua anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm thuộc huyện Phụng Nhãn nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh. Từ đó, ông tâm đắc với đạo Phật liền dâng biểu từ quan xin xuất gia tu hành và được nhà vua chấp thuận. Năm 1305, ông xuất gia thụ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, làm thị giả đức Điều Ngự và được ban pháp hiệu là Huyền Quang tôn giả.
Niên hiệu Hưng Long thứ 17 (1309), Tôn giả theo hầu Pháp Loa theo lời phó chúc của đức Điều Ngự, Tôn giả vâng mệnh trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Do Tôn giả đa văn uyên bác, học tinh thâm đạo lý nên học đồ bốn phương nghe danh tụ hội về tham vấn thường xuyên rất đông. Tôn giả phụng chiếu thường đi giảng Kinh dạy học các nơi và soạn truyền kinh sách Phật học, cho khắc in nhiều bản để truyền bá trong dân. Vua Trần đã từng khen "Các sách vở nói về đạo Phật do chính Huyền Quang viết ra không nên thêm bớt một chữ nào". Những khoa giáo trong nhà Thiền đều phải qua tay Ngài cả.
Ngày 15 tháng Giêng năm Quý Sửu (1313), vua Anh Tông mời Tôn giả về kinh ở chùa Báo Ân giảng kinh Lăng Nghiêm. Sau đó, Tôn giả dâng chiếu xin về quê thăm cha mẹ, nhân đây Ngài lập ngôi chùa đề hiệu là Đại Bi Tự.
Tôn giả trở về chùa Vân Yên khi Ngài đã 60 tuổi. Nhà vua muốn thử lòng Tôn giả nên cho Thị Bích là một cung nhân tìm cách gần gũi Tôn giả, song Thị Bích về tâu dối với vua. Vì thế Tôn giả bị tai tiếng. Nhưng sau cuộc chuẩn tế của Tôn giả, thấy những sự linh nghiệm lạ thường, nhà vua hết nghi ngờ. Vua liền phạt Thị Bích làm kẻ nô bộc quét chùa trong cung Cảnh Linh ở nội điện.
Năm 1330, tại chùa Quỳnh Lâm, Pháp Loa lấy áo Cà sa của đức Điều Ngự Trần Nhân Tông cùng với bài kệ Tâm ấn trao cho Huyền Quang Tôn giả thừa kế nối dòng Thiến phái Phật giáo Trúc Lâm làm vị Đệ Tam Tổ. Sau đó, Huyền Quang Tôn giả trụ trì chùa Côn Sơn, mở mang chùa cảnh, lập đài Cửu Phẩm Liên Hoa, mở rộng Tằng viện Kỳ Lân ... Ngài viên tịch tại chùa Côn Sơn ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334) thọ 84 tuổi. Vua Trần Minh Tông cấp ruộng để thờ cúng, cấp 10 lạng vàng để xây tháp mộ phía chân núi sau chùa, ban thụy là "Trúc Lâm Thiền sư Đệ tam đại".
Huyền Quang Tôn giả đã soạn các kinh sách như "Thích Khoa Giáo". "Chư Phẩm Kinh", "Công Văn Tập"... Ngài còn sáng tác nhiều bài kệ và thơ thể hiện tình cảm gắn bó với thiên nhiên, với đạo với đời và tư tưởng triết lý thiền rất sâu sắc.
Hòa thượng Thích Gia Quang
Негізгі бет Du Cảnh Hồ Tây THIỀN SƯ HUYỀN QUANG
Пікірлер