Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý PGHH:
/ sấm giảng thi văn giáo...
THIÊN-LÝ CA
Mấy bài dưới đây do ông cả Châu ở Tân-Long
(Châu-Đốc) đem trình với Đức Thầy nói rằng của
“Ông Đò” cho ông:
H.H tháng 7 năm Kỷ-Mão
PHAN lòng chữ dạ chớ hoài lo,
NGỌC ẩn non Côn tợ lửa lò.
CHÂU lạc đường dê nương bước ngựa,
Núi truông qua đặng rán lần dò.
Vườn hoa ngó khỉ giọng chiu-chít,
Cảnh nguyệt coi gà tiếng ó-o.
Tường-tận đã nghe xê cống liếu,
Hương-thôn bỏ xế xự xang hò.
Hò xang xự xế bỏ thôn hương,
Liếu-cống xê nghe đã tận-tường.
O-ó tiếng gà coi nguyệt cảnh,
Chít-chiu giọng khỉ ngó hoa vườn.
Quỉ ma hay phá rối người tu,
Đạo-đức chư nhu rán chí hành.
Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh,
Chớ quên tiếng nguyện chốn non xanh.
Đêm thanh vắng tiếng đờn khoan-nhặt,
Nghe cho tường giọng bắc hòa nam.
Thích-Ca còn phế tước-hàm,
Đài cao cửa rộng mà ham tu-hành.
Hiền-đệ Châu muốn nghe lời ngọc,
Lão tỏ bày hình vóc nhiệm-sâu.
Thiên ý không riêng mối Đạo mầu,
Rằng truyền yếu-lý nhiệm cao sâu.
Chuyển miền Nam-Địa càng thâm-diệu,
Lọc lẽ tà tâm sự đứng đầu.
Nguồn bạch thủy trong veo thấy dạng,
Lẽ nhiệm-mầu chưa hản trò ôi !
Đêm ngày buồn-bã vô hồi,
Kìa trên Tiên-cảnh vị-ngôi sẵn dành.
Đạo rải khắp năm canh tỏa bút,
Dạy tận-tường chẳng chút nào sai.
Cổ nhơn tích để phân bày,
Đường chơn nẻo chánh âu ai rán tầm.
Thuyền bát-nhã chí tâm trực thẳng,
Thả ra khơi cứu dẫn khách trần.
Phù-sanh lắm cuộc lao thân,
Ngày đêm ta-thán muôn phần đớn-đau.
Trông đợi người tài cao đức trọng,
Hầu rõ thông thiên-võng lẽ nao.
Chí tâm tường-lãm thấp cao,
Dạy cho rõ biết Thiên-Tào nơi đâu.
Ngồi nghĩ cạn thêm sầu cho thế,
Bởi ít ai cải chế đường tà.
Sợ e nhiễm trược đọa sa,
Sợ cho lắm kẻ chan-hòa lụy tuôn.
Sợ nhiều kẻ dạ buồn đổi chí,
Quên những câu chánh kỷ hóa nhơn.
Mảng lo tìm kiếm tước quờn,
Thất kỳ vọng tưởng lánh chơn đường lành.
Trong buổi khổ mau mau tránh khổ,
Rán tầm vào đến chỗ an cư.
Học câu hỉ-xả đại từ,
Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần.
Câu bát-chánh rán mài chạm dạ,
Tứ mục-điều người khá hành y.
Muôn thu thiên định nhứt kỳ,
Hạ-nguơn sắc-lịnh khai kỳ Long-Hoa.
Rán vẹt phá sương mù trước mắt,
Chớ để cho quỉ dắt linh hồn.
Lão đây vưng lịnh Phật-Tôn,
Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành.
Khá chí tâm học-hành kinh sám,
Thoát nơi miền hắc-ám phong-ba.
Trở chơn cho kịp Long-Hoa,
Long-Hoa có mặt ấy là hiền nhơn.
Đền nợ thế nghĩa ơn trọn vẹn,
Lấy tinh-thần hiệp vén ngút-mây.
Chớ nên bắt-bẻ Phật-Thầy,
Ngày sau phải chịu đọa-đày chớ than.
Cuối năm Thìn sẽ lo vận chuyển,
Xứ“ Hà Tiên” linh-hiển cơ-quan.
Nhơn-sanh sẽ hiệp một đàng,
Hết Thìn rồi lập Nhơn-Hoàng hội ra.
Khuyên sanh-chúng gần xa phân cạn,
Dựng Nhơn-Hoàng cho rạng Á-Đông.
Chúng-sanh phải tưởng giống-dòng,
Hiệp tâm hiệp trí cột đồng nhà Nam.
Phật chỉ dạy qui tam lập hội,
Dựng cho rồi một cội thành ba.
Chớ mong yến thử ẩm hà,
Mười ngàn năm lẻ cửa nhà đâu con?
Ta nhắc lại héo von cho trẻ,
Cứ đâu lưng đừng rẽ đừng chia.
Cả kêu lớn nhỏ quày vìa,
Trên hòa dưới thuận chớ lìa chớ phân.
Long-Hoa hội ân-cần lo lập,
Lập cho rồi tam-thập-lục nhơn.
Lôi-Âm giục khởi tiếng đờn,
Thất-Sơn dấy loạn là cơn hiểm-nghèo.
Nơi phía trước cheo-leo tiếng khóc,
Đứng sau lưng hình vóc dảy chưn.
Nước kia lửa nọ tưng-bừng,
Thảm cho thế-sự lẫy-lừng nạn-tai.
Thời cũng tại không ai tu niệm,
Cứ lẳng-lơ ngạo biếm khoe-khoang.
Đến nay là buổi tai-nàn,
Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân.
Đến Thân-Dậu Thánh-Thần náo-động,
Thảm cho trần nhà trống ruộng hoang.
Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn,
Nạn-tai dồn-dập xóm làng còn chi.
Khuyên sanh-chúng rán ghi mối đạo,
Lòng hằng lo ngay thảo nghe con.
Tương dưa giữ phận cho tròn,
Cuối niên Thân-Dậu mất còn sẽ phân.
Trong một giáp ân-cần suy tính,
Muốn làm hiền rán nhịn đừng than.
Đến nay gần buổi khoa tràng,
Minh-Quân xuất thế khắp tràng thảnh-thơi.
Đến Thân-Dậu cơ trời thấy lộ,
Hết đao-binh qui cổ diệt kim.
Негізгі бет LƯƠNG THỊ KHỞI - Bài: THIÊN-LÝ CA
Пікірлер